Theo chuyên gia, Việt Nam có cơ hội trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng chiến lược của Mỹ - điều này không chỉ giúp Việt Nam tránh bị đánh thuế mà còn tăng cường vị thế trong khu vực.

Hoạt động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Bumjim Electronics Vina (100% vốn Hàn Quốc). (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)
Nguy cơ về thuế đối ứng vẫn đang hiện hữu và rất phức tạp với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, mặc dù Mỹ tuyên bố tạm hoãn áp dụng thuế riêng trong vòng 90 ngày để mở đường cho đàm phán.
Giới phân tích cho rằng cùng với việc Chính phủ quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp để giảm nhẹ tác động từ biến động thuế quan, doanh nghiệp cũng cần chủ động thích ứng, linh hoạt, đa dạng thị trường, mở rộng cơ hội kinh doanh.
Giám đốc Trung tâm Phân tích-Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn-Hà Nội (SHS), ông Nguyễn Minh Hạnh cho rằng trong một thế giới đầy biến động, không có gì quý hơn tinh thần chủ động thích nghi.
Việt Nam có cơ hội trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng chiến lược của Mỹ. Điều này không chỉ giúp Việt Nam tránh bị đánh thuế mà còn tăng cường vị thế trong khu vực.
Ông Hạnh nêu một số sáng kiến cần tập trung, đó là hợp tác trong lĩnh vực bán dẫn. Mỹ đang hỗ trợ Việt Nam đào tạo 2.000 kỹ sư chip, đây là cơ hội để Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng chip khu vực - phối hợp với Đài Loan (Trung Quốc) Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tham gia sâu hơn vào IPEF (Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương) - một sáng kiến do Mỹ khởi xướng.
Dù không trực tiếp mở cửa thị trường, nhưng việc tuân thủ các tiêu chuẩn cao về minh bạch, lao động, môi trường sẽ giúp Việt Nam ghi điểm.
Để chuẩn bị cho những tình huống bất lợi, Việt Nam không đứng yên chờ đợi, mà phải xây dựng chiến lược dài hơi để giảm thiểu sự phụ thuộc vào một thị trường duy nhất, đồng thời khéo léo đàm phán nhằm duy trì lợi ích quốc gia.
Theo ông Hạnh, chiến lược ứng phó của Việt Nam cần dựa trên hai trụ cột chính. Cụ thể là giảm thiểu phụ thuộc (đa dạng hóa thị trường, nội địa hóa sản xuất); chủ động thích nghi (đối thoại, tuân thủ quy tắc thương mại mới).
Quan trọng nhất, Việt Nam cần chứng minh với Mỹ rằng một Việt Nam ổn định, thịnh vượng cũng phục vụ lợi ích chiến lược của Mỹ. Khi đó, nguy cơ bị áp thuế cao sẽ giảm đi đáng kể, hoặc nếu có, cũng ở mức có thể thương lượng được.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng thị trường, tận dụng những hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết.
EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU) đã giúp xuất khẩu sang EU phục hồi mạnh mẽ, đạt xấp xỉ 51,6 tỷ USD năm 2024, tăng 18,3%. Nếu doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn xanh, lao động của EU, thị phần có thể mở rộng hơn nữa.
CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tại các thị trường như Canada, Mexico, Peru, những nơi trước đây Việt Nam xuất khẩu còn khiêm tốn.

Chế biến mặt hàng tôm đông lạnh phục vụ xuất khẩu tại Công ty Minh Phú, phường 8, thành phố Cà Mau (tỉnh Cà Mau) (Ảnh: Kim Há/TTXVN)
Canada đang nhập khẩu nhiều đồ điện tử, dệt may từ Việt Nam nhờ thuế suất 0%. FTA với UAE (Các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất) cũng sắp hoàn tất, mở ra cánh cửa cho nông sản, thủy sản, vật liệu xây dựng vào Trung Đông - khu vực có nhu cầu cao nhưng Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng.
Ông Hạnh cũng cho rằng việc tận dụng tối đa Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), mở rộng xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia - những đối tác thân cận với Mỹ nhưng ít có xung đột thương mại.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng định hướng lại chính sách công nghiệp - giảm phụ thuộc vào lắp ráp đơn thuần.
Về dài hạn, Việt Nam không thể mãi là “công xưởng lắp ráp,” mà cần nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất để giảm rủi ro thuế quan.
Việt Nam cần có sự thay đổi trong chính sách thu hút FDI: Ưu tiên dự án sản xuất sâu, tạo ra nhiều giá trị nội địa, thay vì các dự án lắp ráp đơn giản; khuyến khích đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu như vải, sợi cho ngành may mặc; hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cấp công nghệ, tăng khả năng tham gia chuỗi cung ứng quốc tế.
Vị chuyên gia từ SHS cho rằng dù đối mặt với thách thức về thuế quan, Việt Nam vẫn giữ được lợi thế cạnh tranh dài hạn. Các điểm đến thay thế đều có rào cản riêng và không dễ vượt trội Việt Nam ngay lập tức.
Chính sách bảo hộ thương mại của Mỹ cũng khiến việc chuyển địa điểm không còn là giải pháp an toàn tuyệt đối.
Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp FDI có nhiều lý do để tiếp tục gắn bó với Việt Nam, điều chỉnh chiến lược thay vì rời đi hoàn toàn.
Ông Đinh Quang Hinh, Trưởng bộ phận vĩ mô và chiến lược thị trường, Công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT nhìn nhận Việt Nam sẽ triển khai nhiều biện pháp để ứng phó. Theo đó, Việt Nam chủ động đàm phán để đạt được mức thuế quan thấp hơn; tăng cường kiểm soát thương mại là yếu tố then chốt để ngăn chặn rủi ro trung chuyển và đảm bảo nguồn gốc xuất xứ.
Doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường thông qua các hiệp định như CPTPP và RCEP, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách giảm chi phí và cải thiện chất lượng sản phẩm.
Theo ông Hinh, để củng cố tăng trưởng kinh tế, Việt Nam nên chuyển hướng tập trung vào các động lực tăng trưởng trong nước, bao gồm cải thiện khu vực tư nhân, đổi mới công nghệ và thúc đẩy nền kinh tế số.
Các biện pháp tài khóa như đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tiếp tục giảm thuế VAT có thể kích thích tăng trưởng, trong khi hạ lãi suất nên được xem xét để hỗ trợ doanh nghiệp và đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng.
Ông Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính-tiền tệ Quốc gia phân tích: Với chính sách thuế đối ứng của Mỹ, Việt Nam sẽ nhận được một số cơ hội như mở rộng xuất khẩu sang Mỹ hay các nền kinh tế khác khi họ tìm nguồn thay thế; đón nhận xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng.
Các doanh nghiệp cũng sẽ phải đa dạng hóa, tăng nội lực và đáp ứng các tiêu chuẩn mới giúp tăng sức chống chịu, tự cường.

Hoạt động bốc dỡ, giao nhận container tại cảng Nam Đình Vũ. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)
Tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam cũng đối mặt với một số thách thức lớn như: Xuất khẩu có thể giảm do nhu cầu yếu đi; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) kể cả từ Mỹ sẽ bị ảnh hưởng vì tâm lý nhà đầu tư, rủi ro chính sách toàn cầu và chính sách khuyến khích sản xuất tại Mỹ; xu hướng tăng bảo hộ thương mại, kiểm soát xuất khẩu và điều tra; rủi ro bị áp thuế đối ứng và hạn chế xuất khẩu công nghệ cao.
Đặc biệt là việc cạnh tranh với hàng hóa từ các nước khác xuất khẩu sang Việt Nam do thừa nguồn cung; chi phí logistics, rủi ro lãi suất tỷ giá tăng…
Giải pháp quan trọng hiện nay là các chủ ngành hàng cần phải liên kết lại để đàm phán với hãng tàu, nhằm có chính sách hợp lý.
Theo ông Cấn Văn Lực, các doanh nghiệp nên tận dụng tốt các chính sách hỗ trợ về thuế, phí và tín dụng để tối ưu chi phí, đồng thời nắm bắt xu hướng chuyển đổi kép (xanh hóa và số hóa) nhằm xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với các yêu cầu ESG.
Doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa thị trường, đối tác, chuỗi cung ứng, sản phẩm, dịch vụ và nguồn vốn để thích ứng với chuyển đổi xanh và mô hình kinh doanh tuần hoàn.
Đồng thời, cần nâng cao năng lực cạnh tranh toàn diện, từ công nghệ, nhân lực đến quản trị rủi ro và minh bạch xuất xứ hàng hóa; tận dụng cơ hội từ các FTA thế hệ mới.
Ông Đồng Minh Tuấn, chuyên gia phân tích từ Công ty cổ Phần Chứng khoán Mirae Asset (Việt Nam), cho biết Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn duy trì chính sách lãi suất ổn định, tập trung vào việc ổn định vĩ mô trong nước trong bối cảnh tỷ giá vẫn đang dao động trong ngưỡng cho phép.
Mục tiêu tăng trưởng GDP 8% của Việt Nam cho năm 2025 được đánh giá là khá tham vọng nhưng hoàn toàn khả thi, nhờ các động lực nội tại như giải ngân đầu tư công, cải cách khu vực tư nhân và thúc đẩy sức mua nội địa.
Hoạt động đầu tư công dự kiến gia tăng mạnh mẽ với kế hoạch giải ngân 826.000 tỷ đồng trong năm 2025 (tăng 30% so với cùng kỳ năm trước), song hành cùng sự phục hồi trong phát hành trái phiếu Chính phủ, qua đó thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc duy trì tăng trưởng trước những áp lực từ bên ngoài.