Đây là một trong nhiều đề xuất của các chuyên gia nhằm giúp việc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém hiệu quả hơn.
* Làm sao để tái cơ cấu ngân hàng thành công?
Tại hội thảo "Tái cơ cấu ngân hàng, làm sao đạt hiệu quả tối đa?" sáng ngày 11/04, các chuyên gia đã bàn luận chính sách nhằm tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém hiệu quả và minh bạch. Đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và khắc phục hậu quả tài chính, giúp Nhà nước thu hồi tài sản thất thoát, củng cố, phát triển niềm tin của các nhà đầu tư và đối tác quốc tế về năng lực điều hành chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước.
Chuyển giao bắt buộc đã có trong luật

Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC
Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC chia sẻ chuyển giao bắt buộc để cơ cấu lại ngân hàng thương mại là một khái niệm đã có trong Luật Các tổ chức tín dụng từ năm 2017. Tuy nhiên, đến cuối năm 2024 mới được áp dụng lần đầu tiên trên thực tế. Có khá nhiều vấn đề pháp lý xoay quanh việc hình thành, thực hiện và lý giải về mô hình này.
Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 và 2010 trước kia, ngân hàng thương mại trong nước chỉ được tổ chức dưới mô hình công ty cổ phần, không tổ chức dưới mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn, ngoại trừ ngân hàng thương mại nhà nước.
Từ ngày 05/03-07/07/2015, Ngân hàng Nhà nước đã liên tiếp mua 3 ngân hàng với giá 0 đồng, bao gồm Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), Ngân hàng TMCP Đại Dương (Ocean Bank) và Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu (GP Bank).
Trong giai đoạn đó, việc mua ngân hàng với giá 0 đồng được xác định là mua cổ phần bắt buộc, không bảo đảm về cơ sở pháp lý và không xác định được là mua của ai. Tuy nhiên, việc “mua cổ phần bắt buộc” theo các quyết định trên chính là tiền đề, là “phiên bản” đầu tiên của mô hình “chuyển giao bắt buộc”.
Nguyên nhân dẫn đến chuyển giao bắt buộc
Giải thích thêm về nguyên nhân ra đời mô hình “chuyển giao bắt buộc”, ông Trương Thanh Đức cho biết khi ngân hàng rơi vào tình trạng không bảo đảm các yêu cầu về an toàn và chất lượng hoạt động thì có thể bị áp dụng biện pháp “can thiệp sớm”. Nếu sau khi đã được “can thiệp sớm” mà vẫn không khắc phục được thì sẽ bị đặt vào tình trạng “kiểm soát đặc biệt”. Sau một thời gian đã được kiểm soát đặc biệt mà vẫn không khắc phục được thì sẽ bị phá sản hoặc “chuyển giao bắt buộc”.
Với quá trình “chuyển giao bắt buộc” đối với 4 ngân hàng OceanBank, CBBank, GPBank, DongA Bank, các ngân hàng này được tổ chức dưới mô hình công ty TNHH một thành viên và 100% vốn thuộc sở hữu của 4 ngân hàng thương mại cổ phần. Xét về bản chất, 4 ngân hàng bị “chuyển giao bắt buộc” lần thứ hai.
Lý do dẫn đến ngân hàng bị “chuyển giao bắt buộc” là có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị vốn điều lệ và các quỹ dự trữ, tức thị giá cổ phiếu có thể là 0 đồng (cổ đông không bán được).
Tuy nhiên, về pháp lý, vốn điều lệ không thể là số âm. Giá trị ngân hàng trên thực tế chưa chấm dứt có thể rất thấp, nhưng tối thiểu cũng phải bằng một đơn vị tiền tệ, tức 1 đồng, chứ không thể là số 0 và càng không thể là số âm.
Trên sổ sách kế toán, số vốn điều lệ tối thiểu cũng như tổng mệnh giá cổ phiếu tối thiểu cũng vẫn bằng mức vốn pháp định 3,000 tỷ đồng. Mọi cổ đông ngân hàng vẫn giữ nguyên tỷ lệ sở hữu và cổ phiếu. Các cổ phiếu ngân hàng cũng vẫn còn nguyên giá trị pháp lý và không bị hủy bỏ.
Việc chuyển giao bắt buộc trước mắt là để giải cứu khó khăn kéo dài, giải quyết tình thế bi đát, dừng hoãn, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ. Trong tương lai, để tiến tới đích hợp nhất, sáp nhập hay tái cổ phần hoá, cần giữ cố định mô hình ngân hàng mẹ con một chủ. Tốt nhất là không nên tiếp tục chuyển giao bắt buộc ngân hàng.
Cần minh bạch, công bố báo cáo tài chính ngân hàng yếu kém

Ông Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên chính sách công, Đại học Fulbright Việt Nam
Ông Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên chính sách công, Đại học Fulbright Việt Nam cho biết quy mô ngân hàng thương mại (NHTM) hiện có 35 ngân hàng, trong đó có 5 ngân hàng 0 đồng, yếu kém và được kiểm soát đặc biệt. Nhiều ngân hàng tốt cho cạnh tranh, cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, cho người gửi tiền; tuy nhiên cũng rất thách thức cho việc quản lý, đảm bảo hoạt động an toàn bởi trong lĩnh vực ngân hàng thì rủi ro, thất bại thị trường rất lớn.
Tính từ năm 2010, hệ thống ngân hàng có sự tăng trưởng bùng nổ, thậm chí có ngân hàng tăng trưởng từ 10-15 lần trong 15 năm. Việc này tạo ra thách thức đối với việc quản lý nhưng đồng thời cũng là cơ hội, là cơ sở để tái cấu trúc ngân hàng.
Nhìn vào lịch sử tái cơ cấu những ngân hàng thương mại yếu kém từ năm 2011 đến nay, có các hình thức tái cơ cấu như: Sáp nhập, hợp nhất, tham gia của nhà đầu tư mới, chuyển giao bắt buộc.
Nguyên nhân làm ngân hàng thương mại cổ phần rơi vào tình trạng yếu kém như: (1) Ngân hàng bị thao túng bởi một nhóm cổ đông nắm tỷ lệ sở hữu lớn để tạo sự kiểm soát chi phối thông qua cấu trúc sở hữu chéo; (2) cơ cấu sở hữu chéo giúp vô hiệu hóa các quy định về đảm bảo hoạt động an toàn; (3) ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và dự án trong “hệ sinh thái” không có hiệu quả và tín dụng trở thành nợ xấu. Từ đó, các ngân hàng yếu kém phải tái cơ cấu (hợp nhất, sáp nhập).
Lúc này, Ngân hàng Trung ương đóng vai trò “người cho vay cuối cùng” để đảm bảo thanh khoản và ngăn chặn rủi ro đổ vỡ mang tính hệ thống. Tái cơ cấu phải dùng nguồn lực tài chính thực (từ Nhà nước hoặc nhà đầu tư tư nhân mới). Việc tái cơ cấu phải đi cùng thay đổi cấu trúc sở hữu theo hướng giảm sở hữu chéo.
Cần một hệ thống thanh tra, giám sát mang tính hợp nhất cao hơn để phát hiện và ngăn chặn các hành vi không tuân thủ trên cả hoạt động ngân hàng và chứng khoán (trên cả thị trường tiền tệ và thị trường vốn).
Các ngân hàng sau khi được chuyển giao bắt buộc xong sẽ đổi tên, đó là thực trạng đang diễn ra. Đây là hình thức chuyển đổi ngân hàng số mà không xóa sổ giấy phép ngân hàng. Động thái chuyển ngân hàng số cho thấy giá trị thương hiệu của các ngân hàng không còn mà chỉ còn mỗi giá trị giấy phép, các khoản nợ xấu cũng đã mất vốn.
Theo ông Thành, cần có sự minh bạch trong hệ thống ngân hàng. Hiện nay, tất cả ngân hàng thương mại cổ phần nếu không niêm yết thì phải công bố báo cáo tài chính định kỳ, trừ các ngân hàng liên doanh nước ngoài. Tuy nhiên, có nhiều ngân hàng yếu kém cũng không công bố báo cáo tài chính. Ông Thành cho rằng các ngân hàng cần công bố báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch.